Read Books Online and Download eBooks, EPub, PDF, Mobi, Kindle, Text Full Free.
Ltph Biet Kinh Nghiem Va Vui Huong Christ Nhu Duoc Khai Thi Trong Sach Phi Lip
Download Ltph Biet Kinh Nghiem Va Vui Huong Christ Nhu Duoc Khai Thi Trong Sach Phi Lip full books in PDF, epub, and Kindle. Read online Ltph Biet Kinh Nghiem Va Vui Huong Christ Nhu Duoc Khai Thi Trong Sach Phi Lip ebook anywhere anytime directly on your device. Fast Download speed and no annoying ads. We cannot guarantee that every ebooks is available!
Book Synopsis LTPH – Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1) – Tập 1 by : Suối nước sống
Download or read book LTPH – Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1) – Tập 1 written by Suối nước sống and published by Suối nước sống. This book was released on 2024-10-09 with total page 273 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Quyển sách này nhằm hỗ trợ tín đồ trong việc phát triển thời gian phấn hưng buổi sáng hằng ngày với Chúa trong lời Ngài. Đồng thời, sách cũng giúp ôn lại phần nào kì Huấn luyện bán niên được tổ chức vào ngày 01-06 tháng 07 năm 2024 tại Anaheim, California, về “Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1).” Qua sự tiếp xúc mật thiết với Chúa trong lời Ngài, tín đồ có thể được cấu tạo bằng sự sống và lẽ thật, bởi đó được trang bị để nói tiên tri trong các buổi nhóm của Hội thánh, dẫn đến xây dựng Thân thể Đấng Christ.
Book Synopsis CVCUL Tập 28, Số 7, Kì 1 - Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1) by : Suối nước sống
Download or read book CVCUL Tập 28, Số 7, Kì 1 - Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1) written by Suối nước sống and published by Suối Nước Sống. This book was released on 2024-10-09 with total page 366 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Số ra kì này của Chức vụ cung ứng lời ghi lại đầy đủ 12 bài giảng được chia sẻ trong suốt kì huấn luyện bán niên tháng 7 năm 2024, được tổ chức tại Anaheim, California. Chủ đề của kì huấn luyện này là “Kinh nghiệm, vui hưởng và biểu lộ Christ (1)”, cho thấy chủ đề này có thể sẽ được tiếp tục trong một hoặc nhiều kì huấn luyện khác trong tương lai. Các tiêu ngữ ở trang tiếp theo thể hiện và tóm tắt các lẽ thật trọng yếu và gánh nặng chính được đề cập trong 12 bài này.
Author :Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla Publisher :Tin Lanh Van Pham Publisher, USA ISBN 13 : Total Pages :674 pages Book Rating :4./5 ( download)
Book Synopsis Chú Giải Khải Huyền by : Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla
Download or read book Chú Giải Khải Huyền written by Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla and published by Tin Lanh Van Pham Publisher, USA. This book was released on 2024-09-23 with total page 674 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Tên Sách Tên sách trong các bản dịch Việt ngữ, được dịch là “Khải Huyền” hoặc “Khải Thị”. Các bản dịch Anh ngữ dịch là “Revelation”. Chữ revelation phát xuất từ chữ gốc apokalypsis, /a-bô-cá-lúp-sít/ G602 [1] trong tiếng Hy-lạp. Apokalypsis là một từ ngữ ghép, gồm “apo” có nghĩa là lấy khỏi, cất đi; và “kalypsis” có nghĩa là tấm màn che. Như vậy, nghĩa đen của apokalypsis là vén màn, cất màn che đi; nghĩa bóng là sự bày tỏ, sự tiết lộ một điều gì vốn được giấu kín. Dưới đây là ý nghĩa một số từ ngữ liên quan đến tên sách được dùng trong các bản dịch Việt ngữ: 1. Khải Huyền = Những nghĩa lý sâu kín, những lẽ thật được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; huyền = những nghĩa lý chân thật, sâu kín). 2. Khải Thị = Những sự nhìn thấy được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; thị = những sự nhìn thấy, xem xét). 3. Khải Tượng = Những hình ảnh được bày tỏ (khải = mở ra, trình bày; tượng = hình ảnh). 4. Mạc Khải = Sự mở màn, sự vén màn hoặc sự bày tỏ những điều vốn được giấu kín (mạc = tấm màn che, phủ; khải = mở ra, trình bày). Thánh Kinh Việt ngữ, Bản Dịch Truyền Thống, dùng từ ngữ “mặc thị” để dịch chữ apokalypsis. Tuy nhiên, trong tiếng Hán Việt, mặc = im lặng, tĩnh mịch; thị = xem xét, quan sát; vậy, mặc thị = xem xét hay quan sát sự tĩnh mịch, im lặng. Như vậy, dùng “sự mặc thị” để dịch “the revelation” là không đúng nghĩa. Nhiều lúc chữ “mặc khải” (khai mở sự im lặng) cũng bị dùng lầm, thay vì dùng đúng chữ là “mạc khải”. Chữ apokalypsis là chữ đầu tiên của sách Khải Huyền: “Sự mạc khải (apokalypsis) của Đức Chúa Jesus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài để tỏ ra cho các tôi tớ Ngài những điều sắp phải xảy đến; Ngài đã sai thiên sứ Ngài tỏ ra cho tôi tớ Ngài là Giăng”, và được dùng làm tên sách trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh. Người Ghi Chép Người ghi chép Khải Huyền tự xưng là một tôi tớ của Đức Chúa Jesus Christ, tên là Giăng (1:1), được Đức Chúa Trời kêu gọi làm tiên tri để “nói tiên tri trước nhiều dân, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ và nhiều vua” (10:11). Con dân Chúa trong Hội Thánh ban đầu tin rằng, Tiên Tri Giăng chép sách Khải Huyền cũng chính là Sứ Đồ Giăng, người chép sách Giăng. Đến thế kỷ thứ 3, một giám mục Phi Châu, tên là Đi-ô-ni-sớt (Dionyssius), nêu ra vài bằng cớ cho rằng, Tiên Tri Giăng, người chép sách Khải Huyền, không phải là Sứ Đồ Giăng. Các bằng cớ được ông đưa ra là: 1. Văn phong và kiến thức về Hy văn của người ghi chép sách Khải Huyền khác và kém xa với Sứ Đồ Giăng là người ghi chép sách Giăng. 2. Sứ Đồ Giăng tránh nhắc đến tên mình trong sách Giăng trong khi người ghi chép Khải Huyền thường xuyên nhắc đến tên mình trong sách Khải Huyền. 3. Toàn bộ nội dung của sách Khải Huyền không cho thấy có chỗ nào người ghi chép tự nhận hoặc ngụ ý mình là một sứ đồ. Dù vậy, phần lớn các nhà giải kinh ngày nay đều chấp nhận quan điểm cổ truyền: Sứ Đồ Giăng chính là người chép sách Khải Huyền. Quan điểm cổ truyền là quan điểm dựa trên các tài liệu do các giám mục cùng thời với Sứ Đồ Giăng ghi lại. Ba nan đề nêu trên có thể được giải thích như sau: 1. Sứ Đồ Giăng là một người đánh cá, thất học (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:13). Có thể, sách Giăng là do một người giỏi tiếng Hy-lạp viết giùm cho ông, khi ông đang sinh hoạt với Hội Thánh tại Ê-phê-sô, trước khi ông bị cầm tù trên đảo Bát-mô. Còn sách Khải Huyền do chính ông tự tay viết lấy trong khi ông bị cầm tù trên đảo Bát-mô. Vì Giăng là người thất học nên bản văn Khải Huyền đương nhiên có nhiều lỗi văn phạm. 2. Trong sách Giăng, Sứ Đồ Giăng không cần nhắc đến tên mình, vì việc viết sách Giăng được thực hiện giữa Hội Thánh, có nhiều người biết. Hơn nữa, những gì được ghi chép trong sách Giăng có tính cách lịch sử, nhiều nhân chứng vẫn còn sống khi sách Giăng được viết ra. Còn sách Khải Huyền do chính Giăng viết một mình trong khi bị cầm tù, lại viết về những việc tương lai, nên ông phải xác định tên của mình, để bảy Hội Thánh vùng Tiểu Á khi nhận được sách, thì biết là sách Khải Huyền do ông viết. 3. Nội dung của sách Khải Huyền là những lời tiên tri, không liên quan gì đến công vụ của một sứ đồ, nên Giăng không cần phải xưng mình là sứ đồ. Dù vậy, trong Khải Huyền 1:2, ông cũng đã tự nhận: “là người đã mang chứng tích cho Lời của Đức Chúa Trời, cho chứng cớ của Đức Chúa Jesus Christ và cho mọi điều ông đã chứng kiến.” Chúng tôi tin rằng, Sứ Đồ Giăng chính là người ghi chép sách Khải Huyền theo sự mạc khải mà Đức Chúa Jesus Christ đã ban cho ông. “Giăng” trong nguyên ngữ Hy-lạp là Ioannes, /i-ô-a-nét/, G2491, là một tên thông dụng của những người I-sơ-ra-ên sống trong nền văn hóa Hy-lạp. Tên ấy được dịch từ một tên trong tiếng Hê-bơ-rơ: Yowchanan, /Giô-a-nan/, H3110, có nghĩa là: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu ban cho cách rời rộng. Sứ Đồ Giăng là một trong 12 sứ đồ đầu tiên của Đức Chúa Jesus Christ. Ông là em của Sứ Đồ Gia-cơ. Hai anh em ông là bạn cùng nghề đánh cá với Sứ Đồ Phi-e-rơ và Sứ Đồ Anh-rê. Bốn người được Chúa kêu gọi làm sứ đồ trong cùng một ngày, và là bốn sứ đồ đầu tiên trong số 12 sứ đồ. Ông là người duy nhất trong 12 sứ đồ không chết vì tử Đạo, mà chết già (không kể Sứ Đồ Giu-đa Ích-ca-ri-ốt chết vì treo cổ tự sát, sau khi bán Chúa). Giăng được sinh ra vào năm thứ nhất (có tài liệu cho rằng ông được sinh ra vào năm thứ 6 TCN) và chết vào năm thứ 100. Quê hương của ông là xứ Ga-li-lê, thuộc về miền bắc quốc gia I-sơ-ra-ên, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 100 km. Gia đình của ông sinh sống bằng nghề đánh cá trên vùng biển hồ Ga-li-lê còn gọi là biển Ti-bê-ri-át. Gia đình ông có sự quen biết lớn với các thầy tế lễ và thầy tế lễ thượng phẩm đương thời Đức Chúa Jesus. Giăng là sứ đồ duy nhất theo sát Chúa vào tận trong dinh của thầy tế lễ thượng phẩm, trong đêm Chúa bị bắt. Ông cũng là sứ đồ duy nhất có mặt bên chân thập tự giá của Chúa, và đón nhận bà Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa, về làm mẹ mình, theo lời phán dạy của Chúa. Sách Giăng năm lần dùng danh xưng “người môn đồ Chúa yêu” để gọi ông, cho thấy, ông có mối tương giao mật thiết với Chúa hơn các sứ đồ khác. Ngôn Ngữ Được Dùng Để Ghi Chép Sách Khải Huyền được ghi chép bằng tiếng Hy-lạp, là ngôn ngữ phổ thông thời ấy. Tuy nhiên, theo các nhà ngôn ngữ học thì lối hành văn của người ghi chép sách Khải Huyền đầy dẫy những lỗi lầm về văn phạm. Dường như người viết nhận thức khải tượng trong ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng A-ra-mai, rồi viết lại bằng tiếng Hy-lạp; hoặc là Khải Huyền đã được ghi chép bằng tiếng A-ra-mai rồi mới được dịch sang tiếng Hy-lạp, và được dịch bởi một người rất kém về văn phạm Hy-lạp. Chúng ta có thể hiểu rằng, sách Khải Huyền do chính tay Sứ Đồ Giăng viết ra, và vì ông là người thất học, nên bản văn đương nhiên có nhiều lỗi lầm. Cũng có thể, Sứ Đồ Giăng hoàn toàn không biết đọc, không biết viết tiếng Hy-lạp, nên ông đã nhờ một bạn tù ít học viết theo lời thuật của ông. Địa Điểm Ghi Chép Theo lời của Giăng (1:9-11) thì những khải tượng đến với ông đang khi ông ở trên đảo Bát-mô. Chúng ta không có dữ kiện nào để biết rằng, Giăng đã viết sách Khải Huyền trong khi ông vẫn còn đang bị cầm tù trên đảo Bát-mô, hay là sau khi được trả tự do, Giăng về lại Ê-phê-sô và đã viết sách Khải Huyền tại Ê-phê-sô. Tuy nhiên, qua suy luận, chúng ta có thể cho rằng, Giăng đã viết sách Khải Huyền ngay khi ông còn ở trên đảo Bát-mô. Bởi vì, nếu sách Khải Huyền được viết tại Ê-phê-sô thì chắc chắn văn phong sẽ khác, vì tại Ê-phê-sô có nhiều người thông thạo tiếng Hy-lạp. Bởi vì, Giăng không biết được mình còn sống đến bao lâu, khi nào mới được trả tự do, cho nên, ông sẽ ghi chép ngay những gì đã được mạc khải cho ông, để gửi ngay đến bảy Hội Thánh, theo lời phán truyền của Chúa. Thời Điểm Ghi Chép Căn cứ vào các sự kiện lịch sử, nhiều nhà giải kinh cho rằng sách Khải Huyền được ghi chép vào khoảng năm 95 đến 96 trong bối cảnh Đạo Chúa bị bách hại dữ dội dưới triều đại của Hoàng Đế La-mã Đô-mi-tiên. Có thể, sách Khải Huyền được viết vào năm 95; đến năm 96, Hoàng Đế Đô-mi-tiên qua đời, cơn bách hại Đạo Chúa chấm dứt, Giăng được trả tự do. Bối Cảnh Lịch Sử Lúc Sách Được Ghi Chép Đô-mi-tiên (81-96) là hoàng đế La-mã bạo ngược và bách hại Hội Thánh Đấng Christ dã man nhất trong lịch sử La-mã. Mặc dù trước đó, Hoàng Đế Nê-rô (54-68), trong những năm cuối đời của ông có bách hại các tín đồ Đấng Christ, nhưng không phải vì cớ đức tin của họ. Truyền thuyết cho rằng Nê-rô ra mật lệnh đốt bỏ những khu dân cư lụp xụp của thành La-mã để lấy chỗ xây dựng cung điện mới cho mình. Sau khi cơn hỏa hoạn khủng khiếp xảy ra, dân chúng nghi ngờ đó là dã tâm của Nê-rô nên muốn nổi loạn. Nê-rô bèn trút đổ hết trách nhiệm làm cháy thành La-mã lên những tín đồ Đấng Christ, vốn là một cộng đồng hiền hòa, yếu đuối, và ông ra lệnh tàn sát họ để xoa dịu dân chúng. Khi Đô-mi-tiên lên ngôi, ông tuyên bố mình là Đức Chúa Trời, hạ lệnh cho mọi người phải thờ lạy và gọi mình là Đức Chúa Trời. Tất cả những ai không chịu tôn xưng Đô-mi-tiên là Đức Chúa Trời và thờ lạy ông, đều bị xử chết. Dĩ nhiên, các tín đồ Đấng Christ thời ấy không thể vâng phục sắc lệnh của Đô-mi-tiên, sự kháng lệnh ấy dẫn đến những cuộc bắt bớ, tàn sát Hội Thánh Chúa cách dã man (93-96). Trong bối cảnh đau thương, kinh hoàng đó, sứ điệp Khải Huyền đã đến với các Hội Thánh Chúa. Sứ điệp Khải Huyền chính là bản hùng ca của Chân Lý và Đức Tin, vang lên giữa chiến trận khốc liệt của quyền lực bóng tối và sự chết đang cố chà đạp thân xác những con người đã “vượt khỏi sự chết vào trong sự sống” (I Giăng 3:13-14). Hoàng Đế Nê-va (Nerva) (96-98), người kế vị Đô-mi-tiên, ngay sau khi lên ngôi đã lập tức hủy bỏ những sắc lệnh dã man của Đô-mi-tiên, trả tự do cho những tín đồ bị cầm tù; nhưng máu của các thánh đồ đã nhuộm thấm khắp đế quốc La-mã! Họ đã “trung tín cho tới chết” (2:10) với “Đấng yêu chúng ta; Đấng đã rửa sạch những tội lỗi của chúng ta trong máu của Ngài; Đấng đã lập chúng ta làm những vua và những thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời, Cha của Ngài” (1:5-6). Ý Nghĩa và Mục Đích của Sách Khải Huyền Sách Khải Huyền là mạc khải cuối cùng của Đức Chúa Trời ban cho toàn thể Hội Thánh của Ngài, để bày tỏ những công việc sắp đến của Đấng Christ. Thánh Kinh được mở đầu bằng sách Sáng Thế Ký để ghi lại nguồn gốc của trời đất và nhân loại, được kết thúc bằng sách Khải Huyền để báo trước sự phán xét công chính của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi và sự cứu rỗi dành cho những ai ăn năn tội, tin nhận ân điển tha tội và làm cho sạch tội của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ. Sách Khải Huyền cũng báo trước sự hoàn thành Vương Quốc Ngàn Năm của Đấng Christ trên đất; sự kết thúc của trời cũ, đất cũ, của Sa-tan và tất cả những ai chống nghịch Đức Chúa Trời; sự dựng nên trời mới, đất mới; cùng cơ nghiệp phước hạnh đời đời của con dân Chúa. Mục đích thứ nhất của sách Khải Huyền là để kêu gọi con dân Chúa thật lòng ăn năn tội, sống thánh khiết, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa, và trung tín với Chúa cho đến chết; vì những đau thương, khốn khó, hoạn nạn, cám dỗ… đều sẽ qua đi nhanh chóng, và ngày Đấng Christ trở lại để thiết lập vương quốc của Ngài trên đất có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Mục đích thứ nhì của sách Khải Huyền là công bố trước chương trình của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại sau khi thời đại của Hội Thánh được kết thúc. Thời đại của Hội Thánh sẽ kết thúc trong ngày Đức Chúa Jesus Christ xuất hiện giữa chốn không trung, để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Bố Cục của Sách Khải Huyền Về hình thức, sách Khải Huyền được chia thành 22 đoạn, mỗi đoạn có số câu nhiều ít khác nhau. Về nội dung, sách Khải Huyền bao gồm một chuỗi “bảy sự kiện”: Bảy Hội Thánh: Đoạn 2 và 3. Bảy Dấu Ấn: Đoạn 6, 7 và đoạn 8 (câu 1 đến 5). Bảy Tiếng Loa: Đoạn 8 (từ câu 6) đến đoạn 11. Bảy Dấu Hiệu: Đoạn 12 đến 14. Bảy Chén: Đoạn 16 đến 18. Bảy Sự Cuối Cùng: Đoạn 19 đến 21. Các sự kiện này được chia thành bốn chương chính: 1. Chương Một — Đấng Christ và Hội Thánh: từ đoạn 1:1 đến đoạn 3:22. Chương này nói về sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh trong khoảng thời gian chừng 2.000 năm. 2. Chương Hai — Đấng Christ và Thời Đại Nạn: từ đoạn 4:1 đến đoạn 18:24. Chương này nói về sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với thế gian và dân tộc I-sơ-ra-ên trong khoảng thời gian bảy năm. 3. Chương Ba — Đấng Christ và Vương Quốc Ngàn Năm: từ đoạn 19:1 đến đoạn 20:15. Chương này nói về sự cai trị của Đấng Christ trong Vương Quốc Ngàn Năm của Ngài. 4. Chương Bốn — Đấng Christ và Vương Quốc Đời Đời: từ đoạn 21:1 đến đoạn 22:21. Chương này nói về sự cai trị đời đời của Đấng Christ trong trời mới và đất mới. Ứng Nghiệm của Sách Khải Huyền Ngày mà Giăng được Đức Chúa Jesus Christ mạc khải cho nội dung của sách Khải Huyền, thì ông cũng được Ngài truyền cho ông viết bảy lá thư gửi cho bảy Hội Thánh địa phương tại vùng Tiểu Á. Chúng ta cần hiểu rằng, Đức Chúa Jesus Christ đã dùng tình trạng của bảy Hội Thánh ấy, làm tiêu biểu cho tình trạng chung của Hội Thánh khắp nơi, kể từ thời điểm ấy cho đến ngày Chúa đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Vì thế, phần nội dung của sách Khải Huyền nói về Đấng Christ và Hội Thánh, đã và đang ứng nghiệm cho từng Hội Thánh địa phương trong suốt gần 2.000 năm qua. Phần thứ nhì nói về Đấng Christ và thời Đại Nạn sẽ ứng nghiệm bất kỳ lúc nào, ngay trong thời đại của chúng ta. Và tiếp theo đó, sẽ là sự ứng nghiệm của phần thứ ba và phần thứ tư, nói về Vương Quốc Ngàn Năm và Vương Quốc Đời Đời. Ba Điều Quan Trọng về Sách Khải Huyền Có ba điều quan trọng về sách Khải Huyền mà chúng ta cần ghi nhớ. 1. Những ai đọc hoặc nghe người khác đọc sách Khải Huyền và giữ những điều đã viết trong ấy, thì sẽ nhận được phước: “Phước cho người đọc cùng những người nghe các lời tiên tri này và giữ những điều đã viết trong ấy, vì thì giờ đã gần!” (Khải Huyền 1:3). Xin chú ý: không phải chỉ đọc hay nghe, mà là đọc hay nghe và giữ lấy những điều đã viết trong sách. 2. Những ai thêm điều gì về nội dung của sách Khải Huyền sẽ bị thêm tai vạ; những ai bớt điều gì về nội dung của sách Khải Huyền thì sẽ bị mất sự sống đời đời: “Tôi làm chứng cho mọi người nghe những lời tiên tri trong sách này. Nếu ai thêm điều gì vào những lời này, Đức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy những tai họa được chép trong sách này. Nếu ai lấy đi điều gì khỏi những lời của sách tiên tri này, Đức Chúa Trời sẽ lấy phần của người ấy khỏi Sách Sự Sống, khỏi thành thánh và khỏi những sự đã được chép trong sách này.” (Khải Huyền 22:18-19). 3. Trong những ngày cuối cùng, sách Khải Huyền sẽ là phương tiện đưa dắt rất nhiều người đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Khi từng chi tiết của các lời tiên tri trong sách Khải Huyền được ứng nghiệm trong thời Đại Nạn, sẽ có rất nhiều người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Họ ý thức rằng, sự bách hại về đức tin mà họ phải gánh chịu bởi chính quyền của AntiChrist sẽ chẳng ra gì, so với sự bị hư mất đời đời nơi hỏa ngục. Chúng tôi mong rằng, tất cả những ai đọc và nghe loạt bài Kỳ Tận Thế này, đều thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trước khi thời Đại Nạn đến. Và như vậy, ngoài sự được cứu rỗi, họ còn được dự phần vào trong Hội Thánh của Ngài. Trong các chương kế tiếp, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từng câu trong sách Khải Huyền. Huỳnh Christian Timothy Huỳnh Christian Priscilla
Book Synopsis Gi_ng S‡ch Phi-l’p by : Phil Crowter
Download or read book Gi_ng S‡ch Phi-l’p written by Phil Crowter and published by Lulu.com. This book was released on 2018-01-02 with total page 70 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Giảng Phi-líp: Dàn ý bài giảng cho sách Phi-líp ...được viết cho những người giảng dạy Kinh Thánh trên khắp thế giới Cầu nguyện-Soạn bài-Giảng là một tiến trình chỉ dẫn đầy mới mẻ nhằm giúp những người giảng dạy Kinh Thánh trên khắp thế giới biết cách giảng giải Lời Chúa rõ ràng và chính xác. 2 Ti-mô-thê 2:15 nói rằng: "Hãy chuyên tâm để được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không có gì đáng thẹn, thẳng thắn (đúng đắn) giảng dạy lời chân lý". Giảng Phi-líp sẽ giúp bạn làm điều này. Sách sẽ giúp bạn: HIỂU được cách Đức Chúa Trời biến đổi cuộc đời của những người thuộc về Ngài HỌC cách trở thành những người đồng công với các Cơ Đốc nhân khác MANG tin mừng của Chúa Giê-xu Christ vào trong thế giới của chúng ta SUY NGẪM để biết mỗi phần của sách Phi-líp này quan trọng ra sao với những người bạn đang chăm sóc DẠY ý chính một cách rõ ràng
Author :Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla Publisher :Tin Lanh Van Pham Publisher, USA ISBN 13 : Total Pages :286 pages Book Rating :4./5 ( download)
Book Synopsis Chú Giải Nhã Ca by : Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla
Download or read book Chú Giải Nhã Ca written by Pastor Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla and published by Tin Lanh Van Pham Publisher, USA. This book was released on 2019-12-08 with total page 286 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Lời Nói Đầu Kính thưa quý bạn đọc, Những sách tổng hợp các bài giảng và các bài chú giải Thánh Kinh do “Tin Lanh Van Pham Publisher, USA” phát hành là những sách tổng hợp các bài giảng do ông bà Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla biên soạn. Những bài giảng này đã được chia sẻ hàng tuần cho con dân Chúa người Việt khắp nơi qua phòng Paltalk “Giang Thanh Kinh” từ năm 2005 đến nay. Bản Thánh Kinh Việt Ngữ được dùng trong các bài giảng là Bản Dịch Ngôi Lời, một bản dịch thật sát với nguyên ngữ Hê-bơ-rơ và Hy-lạp của Thánh Kinh, do ông bà thực hiện. Bản Dịch Ngôi Lời vẫn đang trong tiến trình thực hiện và được dịch đến đâu thì cũng được giảng chú giải từng câu đến đấy. Chúng tôi xin trích đăng dưới đây một phần trong bài Lời Nói Đầu của Thánh Kinh Bản Dịch Ngôi Lời. Mong rằng sẽ giúp cho quý bạn đọc hiểu rõ những chỗ khác biệt giữa Bản Dịch Ngôi Lời với các bản dịch Thánh Kinh tiếng Việt khác. Thánh Kinh Cựu Ước được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ (Hebrew), ngoại trừ một phần nhỏ được viết bằng tiếng A-ra-mai (Aramaic) [1]. Thánh Kinh Tân Ước được viết bằng tiếng Hy-lạp (Greek). Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời là một bản dịch thật sát với các nguyên ngữ của Thánh Kinh. Chúng tôi tránh tối đa cách dịch diễn ý và cố gắng theo sát cách dịch chữ qua chữ, đồng thời cố gắng thành lập câu văn sao cho dễ đọc, dễ hiểu với các từ ngữ thông dụng hiện nay của tiếng Việt. Việc phiên dịch Thánh Kinh đòi hỏi trước hết là ơn ban cho từ Thiên Chúa, kế đến là lòng yêu thích công việc phiên dịch, và sau cùng là nhiều thời gian, nhiều công sức, cùng kiến thức về nguyên ngữ của Thánh Kinh, về phong tục tập quán của người I-sơ-ra-ên. Vì thế, chúng tôi không dám nghĩ là mình có thể được Chúa dùng làm công việc phiên dịch Thánh Kinh. Từ lâu, chúng tôi ao ước sao cho dân tộc Việt Nam có được một bản dịch Thánh Kinh thật sát với nguyên ngữ, nhưng mỗi lần có một bản dịch mới ra đời, là thêm một lần chúng tôi thất vọng. Vì các bản dịch mới ấy không đáp ứng được lòng mong đợi của chúng tôi. Trong khi chờ đợi một bản dịch Thánh Kinh Việt Ngữ tốt hơn, chúng tôi đã học về tiếng Hê-bơ-rơ và Hy-lạp của Thánh Kinh với mục đích để có thể hiểu đúng những câu Thánh Kinh mà chúng tôi giảng dạy. Khi chúng tôi bắt đầu giảng giải kinh từng sách thì chúng tôi nhận thấy rằng, nên dịch lại cho đúng những câu Thánh Kinh đã bị dịch sai hoặc dịch thiếu ý trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống. Vì thế mà dẫn đến việc chúng tôi hiệu đính Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống vào năm 2011. Khi Giáo Hội Tin Lành tại Việt Nam phát hành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2011, thì chúng tôi đổi lại tên bản hiệu đính mà chúng tôi đang tiến hành là: Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Cách làm của chúng tôi là đăng Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống lên mạng, rồi trực tiếp hiệu đính trên mạng, khi thời gian cho phép. Đây là địa chỉ trên mạng của Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/, (tt = Truyền Thống, 2012 = năm bắt đầu hiệu đính). Tuy nhiên, sau một thời gian thì chúng tôi nhận thấy nên dịch mới hoàn toàn, thay vì hiệu đính Bản Dịch Truyền Thống. Và vì thế mà Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời được tiến hành. Chúng tôi vẫn tiếp tục dùng bản văn tại hiệu đính để thực hiện bản dịch Ngôi Lời. Phần Tân Ước được thực hiện trước, vì chúng tôi đang giảng giải kinh phần Tân Ước. Mỗi khi trong bài giảng có trưng dẫn phần Cựu Ước thì chúng tôi dịch mới những câu mà chúng tôi trưng dẫn. Sau khi hoàn tất phần Tân Ước, chúng tôi sẽ tiến hành phần Cựu Ước. Quý độc giả có thể đọc và nghe các bài giảng giải kinh, chú giải từng câu Thánh Kinh của chúng tôi, trên mạng (timhieuthanhkinh.com). Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời sẽ có hai phiên bản: Phiên Bản Ki-tô với cách phiên âm hai danh từ “Ἰησοῦς” và “Χριστός” thành “Giê-xu” và “Ki-tô” (ngoiloi.thanhkinhvietngu.net). Phiên Bản Christ với cách phiên âm hai danh từ “Ἰησοῦς” và “Χριστός” thành “Jesus” và “Christ” như trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống (christ.thanhkinhvietngu.net). Dưới đây là những điều quý độc giả cần biết trước khi đọc Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. CHỮ IN NGHIÊNG Những chữ in nghiêng là những chữ không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh nhưng được hàm ý. Thí dụ: “Có một người được sai đến từ Thiên Chúa. Tên của ông là Giăng.” (Giăng 1:6). Chữ “đến” và chữ “là” không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh. CHỮ TRONG NGOẶC VUÔNG Những chữ ở trong hai ngoặc vuông [ và ] là chú thích của người dịch, không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh. Thí dụ: “Rồi, ông dẫn người đến với Đức Chúa Jesus . Ngài nhìn thấy người thì phán: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na. Ngươi sẽ được gọi là Sê-pha, nghĩa là Phi-e-rơ. [Sê-pha là một tên họ trong tiếng Sy-ri-a cùng nghĩa với Phi-e-rơ trong tiếng Hy-lạp: hòn đá, viên đá]. ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU Danh từ được phiên âm trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống là “Đức Giê-hô-va” được dịch thành “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”. DANH XƯNG THIÊN CHÚA VÀ ĐỨC CHÚA TRỜI Trong nguyên ngữ của Thánh Kinh, dù là tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng A-ra-mai, hay tiếng Hy-lạp, đều có sự phân biệt rõ ràng khi dùng các danh từ chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa và khi dùng các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha. Đó là: Không dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ chung cả ba thân vị hoặc bất cứ thân vị nào trong ba thân vị của Thiên Chúa, mà văn mạch đã giúp cho chúng ta biết đó là thân vị nào, như trong I Ti-mô-thê 3:15-16, văn mạch đã cho chúng ta biết danh từ Thiên Chúa chỉ về thân vị Ngôi Lời: “Nhưng nếu ta chậm trễ, thì con biết cần phải xử sự như thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa Hằng Sống, trụ và nền của lẽ thật. Mọi người đều cho sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Thiên Chúa đã được tỏ ra trong xác thịt, đã được xưng nghĩa trong tâm thần, đã được các thiên sứ trông thấy, đã được giảng ra cho các dân ngoại, đã được tin cậy trong thế gian, đã được cất lên trong sự vinh quang.” Dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha. Tuy nhiên, khi Thánh Kinh được dịch sang tiếng Anh hay các ngôn ngữ khác thì cách dùng ấy đã bị mất đi. Dưới đây là danh sách các danh từ chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa (không có mạo từ xác định) và các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha (có mạo từ xác định) trong mỗi ngôn ngữ của Thánh Kinh, kèm theo mã số Strong, theo thứ tự xuất hiện của chúng trong Thánh Kinh. Mã số Strong là hệ thống ký hiệu số dùng để tra nghĩa các từ ngữ trong Thánh Kinh qua bộ từ điển Hê-bơ-rơ Anh và Hy-lạp Anh do Strong biên soạn. Các bộ từ điển khác cũng dùng hệ thống mã số này. Bạn đọc có thể bấm vào mã số Strong trong bài viết này để vào trang từ điển trên mạng [2] [3], liệt kê ý nghĩa trong tiếng Anh của từ ngữ ấy. H tiêu biểu cho tiếng Hê-bơ-rơ và A-ra-mai (Hebrew and Aramaic). G tiêu biểu cho tiếng Hy-lạp (Greek). Trong tiếng Hê-bơ-rơ: אלהים (‘elohiym) /ê-lô-him/ H430 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). האלהים (ha ‘elohiym) /ha ê-lô-him/ H430 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). אל (‘el) H410 /eo/ không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). האל (ha ‘el) /ha eo/ H410 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). אלה / אלוה (‘elowahh) /ê-lô-a/ H433 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). Trong tiếng A-ra-mai: אלה (‘elahh) /ê-la/ H426 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). אלהא (‘elahh ah) / ê-la a/ H426 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). Trong tiếng Hy-lạp: θεός (theos) / thê-ốt/ G2316 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). ο θεός (ho theos) /ho thê-ốt/ G2316 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). Trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống, tất cả các danh từ trên đây đều được dịch thành “Đức Chúa Trời” bất kể là trong nguyên ngữ của Thánh Kinh có dùng hay không có dùng mạo từ xác định. Trong Thánh Kinh Anh ngữ tất cả các danh từ trên đây đều được dịch thành “God” bất kể là trong nguyên ngữ của Thánh Kinh có dùng hay không có dùng mạo từ xác định, mặc dù trong tiếng Anh có mạo từ xác định “the”. Lý do là vì các danh từ “god” đã được viết hoa để làm thành một tên riêng, và trong tiếng Anh thì tên riêng không có mạo từ xác định. Tuy nhiên, có sự khác biệt về ý nghĩa giữa “god” không có mạo từ xác định với “god” có mạo từ xác định trong các ngôn ngữ của Thánh Kinh: Nếu không có mạo từ xác định thì tất cả các danh từ chỉ về Thiên Chúa trong các tiếng Hê-bơ-rơ, A-ra-mai, và Hy-lạp của Thánh Kinh đều được dùng để chỉ chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa hoặc bất cứ ngôi nào trong ba ngôi, mà có thể dịch sang tiếng Việt là “Thiên Chúa” và dịch sang tiếng Anh là “God”. Nếu có mạo từ xác định thì tất cả các danh từ chỉ về Thiên Chúa trong các tiếng Hê-bơ-rơ, A-ra-mai, và Hy-lạp của Thánh Kinh đều được dùng để chỉ Thiên Chúa Đức Cha, dịch sang tiếng Việt là “Đức Chúa Trời” và lẽ ra phải dịch sang tiếng Anh là “the God”. Ngoại trừ trong Hê-bơ-rơ 1:8-9 thì “θεός” với mạo từ xác định được dùng để chỉ cả Thiên Chúa Đức Cha và Thiên Chúa Đức Con. Lý do là Thiên Chúa Đức Cha đã ban danh của Ngài cho Thiên Chúa Đức Con như đã được nói đến trong Giăng 17:11. “Nhưng về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời! Ngai của Ngài còn đến đời đời. Vương trượng công chính là vương trượng của vương quyền Ngài. Ngài yêu sự công bình và Ngài ghét sự phạm pháp. Bởi cớ ấy, hỡi Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời của Ngài xức dầu cho Ngài với dầu vui mừng, bên cạnh những người cùng dự phần của Ngài.” (Hê-bơ-rơ 1:8-9). “Con không ở thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian, và con về cùng Ngài. Cha Thánh! Xin giữ gìn họ trong danh Ngài, là danh mà Ngài đã ban cho con, để họ cũng là một như chúng ta.” (Giăng 17:11). Sự giữ lại mạo từ xác định của danh từ “Thiên Chúa” trong khi dịch giúp cho chúng ta hiểu Thánh Kinh rõ hơn. Đặc biệt, khi chúng ta hiểu rõ chức năng của mạo từ xác định trong tiếng Hy-lạp thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu Giăng 1:1. Chức năng của mạo từ xác định trong tiếng Hy-lạp: Để chỉ một tên riêng, như: ο ιησους (ho Iēsous) “Đức Jesus”. Để chỉ một danh từ trừu tượng, như: ἡ σοφίᾱ (hē sophíā) “sự khôn sáng”. Kết hợp với các tính từ sở hữu và các đại từ chỉ định trong các nhóm chữ, như: ἡ ἐμὴ πόλις (hē emḕ pólis) “(cái) thành phố của tôi” và αὕτη ἡ πόλις (haútē hē pólis) “(cái) thành phố này”. Để xác định một danh từ là chủ từ trong một câu bất kể nó được đặt trước hay sau động từ, như: και θεος ην ο λογος (kai theos eimi ho logos), là câu phải được dịch là: “Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa” (The Word was God) thay vì dịch “Thiên Chúa hằng là Ngôi Lời” (God was the Word). Để nói đến một người, một vật, hay một sự việc đã được biết hay đã được nói đến trước đó. Để biệt riêng hóa một danh từ, phân biệt đối tượng được nói đến với tất cả các đối tượng cùng loại khác, như: “Đức Chúa Trời” (the God) phân biệt Thiên Chúa Đức Cha với Thiên Chúa Ngôi Lời và Thiên Chúa Đấng Thần Linh. V.v.. Chúng ta hãy xem xét Giăng 1:1 trong tiếng Hy-lạp: εν αρχη ην ο λογος και ο λογος ην προς τον θεον και θεος ην ο λογος Dưới đây là câu dịch từ chữ qua chữ Tiếng Anh: εν (In) αρχη (beginning) ην (was) ο (the) λογος (Word) και (and) ο (the) λογος (Word) ην (was) προς (with) τον (the) θεον (God) και (and) θεος (God) ην (was) ο (the) λογος (Word) Tiếng Việt: εν (Trong) αρχη (ban đầu) ην (hằng thực hữu/hằng có) ο (Ngôi) λογος (Lời) και (và/hoặc dấu chấm câu) ο (Ngôi) λογος (Lời) ην (hằng thực hữu/hằng có) προς (với) τον (Đức/Đấng) θεον (Thiên Chúa/Chúa Trời) και (và/hoặc dấu chấm câu) θεος (Thiên Chúa) ην (hằng là) ο (Ngôi) λογος (Lời) Để có thể dịch Giăng 1:1 từ tiếng Hy-lạp sang tiếng Anh và tiếng Việt một cách sát nghĩa và chính xác thì chúng ta cần biết rằng: Động từ “ην” tương đương với các động từ sau đây trong tiếng Anh: to be, to exist, to happen, to be present (“là, có, ở” trong tiếng Việt). Cả ba lần trong câu này nó được dùng với thì quá khứ chưa hoàn thành, thể chủ động, và thức chỉ định. Chức năng chính của thì quá khứ chưa hoàn thành là diễn đạt phương diện ngữ pháp chưa hoàn thành (vẫn đang tiếp diễn) trong ngữ cảnh thuật chuyện xảy ra thời quá khứ. Liên từ “και” vừa có nghĩa “và” vừa thường được dùng như một dấu chấm câu, để mở đầu một câu mới. Mạo từ xác định “ο” chỉ định một danh từ là chủ từ trong một câu, bất kể nó đứng trước hay sau động từ. Dưới đây là bản dịch sát nghĩa và đúng của Giăng 1:1: Tiếng Anh: In the beginning was the Word. The Word was with the God. The Word was God. Tiếng Việt: Vào lúc ban đầu hằng có Ngôi Lời. Ngôi Lời hằng có cùng Đức Chúa Trời. Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa. (Chú ý cách dùng các danh từ “Đức Chúa Trời”, “Thiên Chúa”, và phân từ “hằng”.) Lúc ban đầu nói đến sự khởi đầu của sự sáng tạo, không phải sự khởi đầu của Ngôi Lời. Thiên Chúa tự thực hữu. Thiên Chúa không có bắt đầu và không có kết thúc. Vào lúc ban đầu của sự sáng tạo thì Ngôi Lời đã thực hữu và đã thực hữu với Đức Chúa Trời (Thiên Chúa Đức Cha). Ngôi Lời đã là Thiên Chúa. “θεος ην ο λογος” chỉ có thể được dịch một cách chính xác là: “Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa” (The Word was God). Chúng ta hãy xem ý nghĩa khác nhau của các câu dưới đây: (1) ο λογος ην θεος = Ngôi Lời hằng là một thần (The Word was a god). (2) ο λογος ην ο θεος = Ngôi Lời hằng là Đức Chúa Trời (The Word was the God). (3) θεος ην ο λογος = Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa (The Word was God). Câu (1) có nghĩa là: Ngôi Lời hằng là một trong các thần linh do Thiên Chúa sáng tạo. Đây là sự giảng dạy của tôn giáo Chứng Nhân Giê-hô-va (Jehovah Witness). Câu (2) khiến cho Ngôi Lời và Đức Chúa Trời cùng là một thân vị. Đây là sự giảng dạy của tôn giáo Ngũ Tuần Nhất Thể (Oneness Pentecostal). Câu (3) là chính xác. Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa như Đức Chúa Trời hằng là Thiên Chúa, và như Đấng Thần Linh hằng là Thiên Chúa. Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời không được dựng nên bởi Thiên Chúa hay Đức Chúa Trời. Ngôi Lời cũng không được sinh ra bởi Thiên Chúa hay Đức Chúa Trời. (Tuy nhiên, thân thể xác thịt và máu của Ngôi Lời đã được sinh ra bởi Đức Chúa Trời trong lòng của Trinh Nữ Ma-ri và được sinh vào trong thế gian bởi Trinh Nữ Ma-ri.) Nếu Ngôi Lời không phải là Thiên Chúa thì nhân loại không thể có sự cứu rỗi. Xin đọc bài “Sự Mầu Nhiệm của Tin Lành” [4]. Xin tham khảo về cách dùng mạo từ trong tiếng Hy-lạp [5]. THỂ TRẠNG CỦA THIÊN CHÚA Trong tiếng Anh, danh từ “Godhead” được dùng để dịch một tính từ và hai danh từ trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh: θεῖος (theios) G2304 (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:29; II Peter 1:3-4), tính từ: Thuộc về bản chất, năng lực, và sự quan phòng… của Thiên Chúa. θειότης (theiotēs) G2305 (Rô-ma 1:20), danh từ: Bản chất, các thuộc tính, và các đặc tính của Thiên Chúa. θεότης (theotēs) G2320 (Cô-lô-se 2:9), danh từ: Trạng thái là Thiên Chúa, có hình thể và các tính chất của Thiên Chúa. Trong Công Vụ Các Sứ Đồ 17:29 chúng tôi dịch là: “bản thể”. Giăng 4:24 cho chúng ta biết bản thể của Thiên Chúa là “thần” (spirit). Trong II Phi-e-rơ 1:3-4 chúng tôi dịch là “thần lực” và “thần tính”. Sức mạnh và thuộc tính của Thiên Chúa. Trong Cô-lô-se 2:9 chúng tôi dịch là “thể trạng của Thiên Chúa”. Thể trạng bao gồm bản thể và bản tính. DANH XƯNG JESUS CHRIST VÀ CHRIST JESUS Trong các thư do Phao-lô viết, ông phân biệt cách dùng danh xưng Jesus Christ với cách dùng danh xưng Christ Jesus. Khi Phao-lô muốn nhấn mạnh về con người của Đức Chúa Jesus, thì ông dùng cách gọi: “Đức Chúa Jesus Christ”. Nhưng khi ông muốn nhấn mạnh đến chức vụ của Đức Chúa Jesus, sự tác động của chức vụ Ngài trên Hội Thánh, thì ông dùng cách gọi: “Đấng Christ” hoặc “Đấng Christ Jesus” [6]. CÁCH DỊCH DANH TỪ “PNEUMA” Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) không có mạo từ xác định, khi dùng cho Thiên Chúa, được dịch là thần để chỉ bản thể của Thiên Chúa, hoặc dịch là thần trí để chỉ ý chí của Thiên Chúa, hoặc dịch là linh (dịch là thánh linh, khi có chữ thánh kèm theo) để chỉ sức sống, năng lực, thẩm quyền, ân tứ (các sự ban cho) ra từ Thiên Chúa qua Đức Thánh Linh. Khi có mạo từ xác định và dùng cho Thiên Chúa, thì được dịch là Đấng Thần Linh (dịch là Đức Thánh Linh, khi có chữ thánh kèm theo), để chỉ về Thiên Chúa Đức Thánh Linh. Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) Khi có mạo từ xác định và dùng cho thiên sứ được dịch là thần linh; nếu dùng cho thiên sứ phạm tội thì được dịch là tà linh. Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) không có mạo từ xác định, khi dùng cho loài người được dịch là thần trí, tinh thần, khuynh hướng. Khi có mạo từ xác định và dùng cho loài người được dịch là tâm thần để chỉ về thân thể thiêng liêng của loài người. CÁCH DỊCH DANH TỪ “ADELPHOS” Danh từ “adelphos” /a-đeo-phót/ (G80) có nghĩa đen là anh em ruột, cùng cha hoặc cùng mẹ, hoặc cùng cả cha lẫn mẹ; khi được dùng để gọi anh chị em trong Chúa, hàm ý nhấn mạnh đến phương diện họ cùng được sinh lại bởi Đức Chúa Trời, cùng được làm con của Đức Chúa Trời, được dịch là “các anh chị em cùng Cha”. CÁCH DỊCH DANH TỪ “EUAGGELION” Chúng tôi chọn dịch danh từ “euaggelion” /du-an-ghê-li-on/ (G2098) thành “Tin Lành” thay vì dịch là “Tin Mừng”, vì “Tin Lành” là tin tức tốt lành về sự tốt lành Thiên Chúa làm ra cho loài người. Chữ “Tin Mừng” không đúng ý với nguyên ngữ Hy-lạp như chữ “Tin Lành”. Tin mừng đối với người này có thể là tin đau buồn cho người khác, trong khi Tin Lành là sự tốt lành chung cho cả muôn loài. CÁCH DỊCH CÁC ĐẠI DANH TỪ NGÔI THỨ BA SỐ NHIỀU Các đại danh từ ngôi thứ ba số nhiều “hymas” /hu-mát/ (G5209), “hymeis” /hu-mai/ (G5210), “hymeteros” /hu-mê-ta-rót/ (G5212), “hymin” /hu-men/ (G5213) khi dùng để gọi con dân Chúa, đều được dịch là “các anh chị em”. CÁCH PHIÊN ÂM Chúng tôi cố gắng giữ theo cách phiên âm các tên riêng của Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống, ngoại trừ có đôi chỗ sửa lại cho thống nhất cách phiên âm của cùng một tên trong Cựu Ước và Tân Ước, như tên cha của Vua Đa-vít, được phiên âm là Gie-sê (thay vì I-sai). Các âm “Y” được đổi thành “I”, như: phiên âm là “I-sơ-ra-ên” thay vì “Y-sơ-ra-ên”, vì trong nguyên ngữ của Thánh Kinh không có âm “Y” Kính thưa quý bạn đọc, Chúng tôi kính chúc quý bạn được nhiều sự thỏa lòng trong ơn Chúa khi quý bạn đọc các sách tổng hợp các bài giảng của ông bà Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla. Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ. Nhà Xuất Bản và Phát Hành Tin Lanh Van Pham Publisher, USA 2019
Book Synopsis Hành trình xuyên Kinh Thánh Tập 6 - Giáo viên by : Suối nước sống
Download or read book Hành trình xuyên Kinh Thánh Tập 6 - Giáo viên written by Suối nước sống and published by Suối Nước Sống. This book was released on 2024-07-02 with total page 215 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Học phần 6. Thơ ca và những lời tiên tri về nhà của Đức Chúa Trời (Gióp – Ma-la-chi) Phần này nói đến khát vọng của Đức Chúa Trời cho sự xây dựng và phương cách của Đức Chúa Trời là sự sống để đạt được sự xây dựng của Ngài. Điều này bắt đầu với kinh nghiệm của các thánh đồ về Chúa trong các sách thi ca mà sản sinh ra sự xây dựng đã được đề cập trong các sách lịch sử rồi. Phần sau của học phần này cho một tổng quan về vai trò của các tiên tri trong việc khích lệ dân Đức Chúa Trời yêu Ngài, lớn lên trong sự sống, và trỗi dậy vì sự xây dựng của Ngài.
Book Synopsis Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2012 by : timhieuthanhkinh.com
Download or read book Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Truyền Thống Hiệu Đính 2012 written by timhieuthanhkinh.com and published by Tin Lanh Van Pham Publisher, USA. This book was released on 2019-12-10 with total page 4068 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Lời Giới Thiệu về Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012 Kính thưa quý độc giả, Thánh Kinh Cựu Ước được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ (Hebrew), ngoại trừ một phần nhỏ được viết bằng tiếng A-ra-mai (Aramaic) [1]. Thánh Kinh Tân Ước được viết bằng tiếng Hy-lạp (Greek). Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời là một bản dịch thật sát với các nguyên ngữ của Thánh Kinh. Chúng tôi tránh tối đa cách dịch diễn ý và cố gắng theo sát cách dịch chữ qua chữ, đồng thời cố gắng thành lập câu văn sao cho dễ đọc, dễ hiểu với các từ ngữ thông dụng hiện nay của tiếng Việt. Việc phiên dịch Thánh Kinh đòi hỏi trước hết là ơn ban cho từ Thiên Chúa, kế đến là lòng yêu thích công việc phiên dịch, và sau cùng là nhiều thời gian, nhiều công sức, cùng kiến thức về nguyên ngữ của Thánh Kinh, về phong tục tập quán của người I-sơ-ra-ên. Vì thế, chúng tôi không dám nghĩ là mình có thể được Chúa dùng làm công việc phiên dịch Thánh Kinh. Từ lâu, chúng tôi ao ước sao cho dân tộc Việt Nam có được một bản dịch Thánh Kinh thật sát với nguyên ngữ, nhưng mỗi lần có một bản dịch mới ra đời, là thêm một lần chúng tôi thất vọng. Vì các bản dịch mới ấy không đáp ứng được lòng mong đợi của chúng tôi. Trong khi chờ đợi một bản dịch Thánh Kinh Việt Ngữ tốt hơn, chúng tôi đã học về tiếng Hê-bơ-rơ và Hy-lạp của Thánh Kinh với mục đích để có thể hiểu đúng những câu Thánh Kinh mà chúng tôi giảng dạy. Khi chúng tôi bắt đầu giảng giải kinh từng sách thì chúng tôi nhận thấy rằng, nên dịch lại cho đúng những câu Thánh Kinh đã bị dịch sai hoặc dịch thiếu ý trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống. Vì thế mà dẫn đến việc chúng tôi hiệu đính Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống vào năm 2011. Khi Giáo Hội Tin Lành tại Việt Nam phát hành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2011, thì chúng tôi đổi lại tên bản hiệu đính mà chúng tôi đang tiến hành là: Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Cách làm của chúng tôi là đăng Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống lên mạng, rồi trực tiếp hiệu đính trên mạng, khi thời gian cho phép. Đây là địa chỉ trên mạng của Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: https://thanhkinhvietngu.net/tiengviet. Tuy nhiên, sau một thời gian thì chúng tôi nhận thấy nên dịch mới hoàn toàn, thay vì hiệu đính Bản Dịch Truyền Thống. Và vì thế mà Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời được tiến hành. Chúng tôi vẫn tiếp tục dùng bản văn tại https://thanhkinhvietngu.net/tiengviet để thực hiện bản dịch Ngôi Lời. Phần Tân Ước được thực hiện trước, vì chúng tôi đang giảng giải kinh phần Tân Ước. Mỗi khi trong bài giảng có trưng dẫn phần Cựu Ước thì chúng tôi dịch mới những câu mà chúng tôi trưng dẫn. Sau khi hoàn tất phần Tân Ước, chúng tôi sẽ tiến hành phần Cựu Ước. Quý độc giả có thể đọc và nghe các bài giảng giải kinh, chú giải từng câu Thánh Kinh của chúng tôi, trên khu mạng: https://timhieuthanhkinh.com. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời sẽ có hai phiên bản: Phiên Bản Ki-tô với cách phiên âm hai danh từ “Ἰησοῦς” và “Χριστός” thành “Giê-xu” và “Ki-tô”. https://ngoiloi.thanhkinhvietngu.net/ Phiên Bản Christ với cách phiên âm hai danh từ “Ἰησοῦς” và “Χριστός” thành “Jesus” và “Christ” như trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống. https://christ.thanhkinhvietngu.net/ Dưới đây là những điều quý độc giả cần biết trước khi đọc Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. CHỮ TRONG HAI NGOẶC NHỌN { } Những chữ được đặt trong hai ngoặc nhọn { } là những chữ không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh nhưng được hàm ý. Thí dụ: “Có một người được sai {đến} từ Thiên Chúa. Tên của ông {là} Giăng.” (Giăng 1:6). Chữ “đến” và chữ “là” không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh. CHỮ TRONG NGOẶC VUÔNG Những chữ ở trong hai ngoặc vuông [ và ] là chú thích của người dịch, không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh. Thí dụ: “Rồi, ông dẫn người đến với Đức Chúa Jesus . Ngài nhìn thấy người thì phán: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na. Ngươi sẽ được gọi là Sê-pha, nghĩa là Phi-e-rơ. [Sê-pha là một tên họ trong tiếng Sy-ri-a cùng nghĩa với Phi-e-rơ trong tiếng Hy-lạp: hòn đá, viên đá]. ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU Danh từ được phiên âm trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống là “Đức Giê-hô-va” được dịch thành “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”. DANH XƯNG THIÊN CHÚA VÀ ĐỨC CHÚA TRỜI Trong nguyên ngữ của Thánh Kinh, dù là tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng A-ra-mai, hay tiếng Hy-lạp, đều có sự phân biệt rõ ràng khi dùng các danh từ chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa và khi dùng các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha. Đó là: Không dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ chung cả ba thân vị hoặc bất cứ thân vị nào trong ba thân vị của Thiên Chúa, mà văn mạch đã giúp cho chúng ta biết đó là thân vị nào, như trong I Ti-mô-thê 3:15-16, văn mạch đã cho chúng ta biết danh từ Thiên Chúa chỉ về thân vị Ngôi Lời: “Nhưng nếu ta chậm trễ, thì con biết cần phải xử sự như thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa Hằng Sống, trụ và nền của lẽ thật. Mọi người đều cho sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Thiên Chúa đã được tỏ ra trong xác thịt, đã được xưng nghĩa trong tâm thần, đã được các thiên sứ trông thấy, đã được giảng ra cho các dân ngoại, đã được tin cậy trong thế gian, đã được cất lên trong sự vinh quang.” Dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha. Tuy nhiên, khi Thánh Kinh được dịch sang tiếng Anh hay các ngôn ngữ khác thì cách dùng ấy đã bị mất đi. Dưới đây là danh sách các danh từ chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa (không có mạo từ xác định) và các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha (có mạo từ xác định) trong mỗi ngôn ngữ của Thánh Kinh, kèm theo mã số Strong, theo thứ tự xuất hiện của chúng trong Thánh Kinh. Mã số Strong là hệ thống ký hiệu số dùng để tra nghĩa các từ ngữ trong Thánh Kinh qua bộ từ điển Hê-bơ-rơ Anh và Hy-lạp Anh do Strong biên soạn. Các bộ từ điển khác cũng dùng hệ thống mã số này. Bạn đọc có thể bấm vào mã số Strong trong bài viết này để vào trang từ điển trên mạng [2], [3], liệt kê ý nghĩa trong tiếng Anh của từ ngữ ấy. H tiêu biểu cho tiếng Hê-bơ-rơ và A-ra-mai (Hebrew and Aramaic). G tiêu biểu cho tiếng Hy-lạp (Greek). Trong tiếng Hê-bơ-rơ: אלהים (‘elohiym) /ê-lô-him/ H430 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). האלהים (ha ‘elohiym) /ha ê-lô-him/ H430 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). אל (‘el) H410 /eo/ không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). האל (ha ‘el) /ha eo/ H410 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). אלה / אלוה (‘elowahh) /ê-lô-a/ H433 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). Trong tiếng A-ra-mai: אלה (‘elahh) /ê-la/ H426 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). אלהא (‘elahh ah) / ê-la a/ H426 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). Trong tiếng Hy-lạp: θεός (theos) / thê-ốt/ G2316 không có mạo từ xác định: Thiên Chúa (God). ο θεός (ho theos) /ho thê-ốt/ G2316 có mạo từ xác định: Đức Chúa Trời (the God). Trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống, tất cả các danh từ trên đây đều được dịch thành “Đức Chúa Trời” bất kể là trong nguyên ngữ của Thánh Kinh có dùng hay không có dùng mạo từ xác định. Trong Thánh Kinh Anh ngữ tất cả các danh từ trên đây đều được dịch thành “God” bất kể là trong nguyên ngữ của Thánh Kinh có dùng hay không có dùng mạo từ xác định, mặc dù trong tiếng Anh có mạo từ xác định “the”. Lý do là vì các danh từ “god” đã được viết hoa để làm thành một tên riêng, và trong tiếng Anh thì tên riêng không có mạo từ xác định. Tuy nhiên, có sự khác biệt về ý nghĩa giữa “god” không có mạo từ xác định với “god” có mạo từ xác định trong các ngôn ngữ của Thánh Kinh: Nếu không có mạo từ xác định thì tất cả các danh từ chỉ về Thiên Chúa trong các tiếng Hê-bơ-rơ, A-ra-mai, và Hy-lạp của Thánh Kinh đều được dùng để chỉ chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa hoặc bất cứ ngôi nào trong ba ngôi, mà có thể dịch sang tiếng Việt là “Thiên Chúa” và dịch sang tiếng Anh là “God”. Nếu có mạo từ xác định thì tất cả các danh từ chỉ về Thiên Chúa trong các tiếng Hê-bơ-rơ, A-ra-mai, và Hy-lạp của Thánh Kinh đều được dùng để chỉ Thiên Chúa Đức Cha, dịch sang tiếng Việt là “Đức Chúa Trời” và lẽ ra phải dịch sang tiếng Anh là “the God”. Ngoại trừ trong Hê-bơ-rơ 1:8-9 thì “θεός” với mạo từ xác định được dùng để chỉ cả Thiên Chúa Đức Cha và Thiên Chúa Đức Con. Lý do là Thiên Chúa Đức Cha đã ban danh của Ngài cho Thiên Chúa Đức Con như đã được nói đến trong Giăng 17:11. “Nhưng về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời! Ngai của Ngài còn đến đời đời. Vương trượng công chính là vương trượng của vương quyền Ngài. Ngài yêu sự công bình và Ngài ghét sự phạm pháp. Bởi cớ ấy, hỡi Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời của Ngài xức dầu cho Ngài với dầu vui mừng, bên cạnh những người cùng dự phần của Ngài.” (Hê-bơ-rơ 1:8-9). “Con không ở thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian, và con về cùng Ngài. Cha Thánh! Xin giữ gìn họ trong danh Ngài, là danh mà Ngài đã ban cho con, để họ cũng là một như chúng ta.” (Giăng 17:11). Sự giữ lại mạo từ xác định của danh từ “Thiên Chúa” trong khi dịch giúp cho chúng ta hiểu Thánh Kinh rõ hơn. Đặc biệt, khi chúng ta hiểu rõ chức năng của mạo từ xác định trong tiếng Hy-lạp thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu Giăng 1:1. Chức năng của mạo từ xác định trong tiếng Hy-lạp: Để chỉ một tên riêng, như: ο ιησους (ho Iēsous) “Đức Jesus”. Để chỉ một danh từ trừu tượng, như: ἡ σοφίᾱ (hē sophíā) “sự khôn sáng”. Kết hợp với các tính từ sở hữu và các đại từ chỉ định trong các nhóm chữ, như: ἡ ἐμὴ πόλις (hē emḕ pólis) “(cái) thành phố của tôi” và αὕτη ἡ πόλις (haútē hē pólis) “(cái) thành phố này”. Để xác định một danh từ là chủ từ trong một câu bất kể nó được đặt trước hay sau động từ, như: και θεος ην ο λογος (kai theos eimi ho logos), là câu phải được dịch là: “Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa” (The Word was God) thay vì dịch “Thiên Chúa hằng là Ngôi Lời” (God was the Word). Để nói đến một người, một vật, hay một sự việc đã được biết hay đã được nói đến trước đó. Để biệt riêng hóa một danh từ, phân biệt đối tượng được nói đến với tất cả các đối tượng cùng loại khác, như: “Đức Chúa Trời” (the God) phân biệt Thiên Chúa Đức Cha với Thiên Chúa Ngôi Lời và Thiên Chúa Đấng Thần Linh. V.v.. Chúng ta hãy xem xét Giăng 1:1 trong tiếng Hy-lạp: εν αρχη ην ο λογος και ο λογος ην προς τον θεον και θεος ην ο λογος Dưới đây là câu dịch từ chữ qua chữ Tiếng Anh: εν (In) αρχη (beginning) ην (was) ο (the) λογος (Word) και (and) ο (the) λογος (Word) ην (was) προς (with) τον (the) θεον (God) και (and) θεος (God) ην (was) ο (the) λογος (Word) Tiếng Việt: εν (Trong) αρχη (ban đầu) ην (hằng thực hữu/hằng có) ο (Ngôi) λογος (Lời) και (và/hoặc dấu chấm câu) ο (Ngôi) λογος (Lời) ην (hằng thực hữu/hằng có) προς (với) τον (Đức/Đấng) θεον (Thiên Chúa/Chúa Trời) και (và/hoặc dấu chấm câu) θεος (Thiên Chúa) ην (hằng là) ο (Ngôi) λογος (Lời) Để có thể dịch Giăng 1:1 từ tiếng Hy-lạp sang tiếng Anh và tiếng Việt một cách sát nghĩa và chính xác thì chúng ta cần biết rằng: Động từ “ην” tương đương với các động từ sau đây trong tiếng Anh: to be, to exist, to happen, to be present (“là, có, ở” trong tiếng Việt). Cả ba lần trong câu này nó được dùng với thì quá khứ chưa hoàn thành, thể chủ động, và thức chỉ định. Chức năng chính của thì quá khứ chưa hoàn thành là diễn đạt phương diện ngữ pháp chưa hoàn thành (vẫn đang tiếp diễn) trong ngữ cảnh thuật chuyện xảy ra thời quá khứ. Liên từ “και” vừa có nghĩa “và” vừa thường được dùng như một dấu chấm câu, để mở đầu một câu mới. Mạo từ xác định “ο” chỉ định một danh từ là chủ từ trong một câu, bất kể nó đứng trước hay sau động từ. Dưới đây là bản dịch sát nghĩa và đúng của Giăng 1:1: Tiếng Anh: In the beginning was the Word. The Word was with the God. The Word was God. Tiếng Việt: Vào lúc ban đầu hằng có Ngôi Lời. Ngôi Lời hằng có cùng Đức Chúa Trời. Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa. (Chú ý cách dùng các danh từ “Đức Chúa Trời”, “Thiên Chúa”, và phân từ “hằng”.) Lúc ban đầu nói đến sự khởi đầu của sự sáng tạo, không phải sự khởi đầu của Ngôi Lời. Thiên Chúa tự thực hữu. Thiên Chúa không có bắt đầu và không có kết thúc. Vào lúc ban đầu của sự sáng tạo thì Ngôi Lời vẫn thực hữu và vẫn thực hữu với Đức Chúa Trời (Thiên Chúa Đức Cha). Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. “θεος ην ο λογος” chỉ có thể được dịch một cách chính xác là: “Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa” (The Word was God). Chúng ta hãy xem ý nghĩa khác nhau của các câu dưới đây: (1) ο λογος ην θεος = Ngôi Lời hằng là một thần (The Word was a god). (2) ο λογος ην ο θεος = Ngôi Lời hằng là Đức Chúa Trời (The Word was the God). (3) θεος ην ο λογος = Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa (The Word was God). Câu (1) có nghĩa là: Ngôi Lời hằng là một trong các thần linh do Thiên Chúa sáng tạo. Đây là sự giảng dạy của tôn giáo Chứng Nhân Giê-hô-va (Jehovah Witness). Câu (2) khiến cho Ngôi Lời và Đức Chúa Trời cùng là một thân vị. Đây là sự giảng dạy của tôn giáo Ngũ Tuần Nhất Thể (Oneness Pentecostal). Câu (3) là chính xác. Ngôi Lời hằng là Thiên Chúa như Đức Chúa Trời hằng là Thiên Chúa, và như Đấng Thần Linh hằng là Thiên Chúa. Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời không được dựng nên bởi Thiên Chúa hay Đức Chúa Trời. Ngôi Lời cũng không được sinh ra bởi Thiên Chúa hay Đức Chúa Trời. (Tuy nhiên, thân thể xác thịt và máu của Ngôi Lời đã được sinh ra bởi Đức Chúa Trời trong lòng của Trinh Nữ Ma-ri và được sinh vào trong thế gian bởi Trinh Nữ Ma-ri.) Nếu Ngôi Lời không phải là Thiên Chúa thì nhân loại không thể có sự cứu rỗi. Xin đọc bài “Sự Mầu Nhiệm của Tin Lành” [4]. Xin tham khảo về cách dùng mạo từ trong tiếng Hy-lạp [5]. THỂ TRẠNG CỦA THIÊN CHÚA Trong tiếng Anh, danh từ “Godhead” được dùng để dịch một tính từ và hai danh từ trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh: θεῖος (theios) G2304 (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:29; II Peter 1:3-4), tính từ: Thuộc về bản chất, năng lực, và sự quan phòng… của Thiên Chúa. θειότης (theiotēs) G2305 (Rô-ma 1:20), danh từ: Bản chất, các thuộc tính, và các đặc tính của Thiên Chúa. θεότης (theotēs) G2320 (Cô-lô-se 2:9), danh từ: Trạng thái là Thiên Chúa, có hình thể và các tính chất của Thiên Chúa. Trong Công Vụ Các Sứ Đồ 17:29 chúng tôi dịch là: “bản thể”. Giăng 4:24 cho chúng ta biết bản thể của Đức Chúa Trời là “thần” (πνευμα). Trong II Phi-e-rơ 1:3-4 chúng tôi dịch là “thần lực” và “thần tính”. Sức mạnh và thuộc tính của Thiên Chúa. Trong Cô-lô-se 2:9 chúng tôi dịch là “thể trạng của Thiên Chúa”. Thể trạng bao gồm bản thể và bản tính. DANH XƯNG JESUS CHRIST VÀ CHRIST JESUS Trong các thư do Phao-lô viết, ông phân biệt cách dùng danh xưng Jesus Christ với cách dùng danh xưng Christ Jesus. Khi Phao-lô muốn nhấn mạnh về con người của Đức Chúa Jesus, thì ông dùng cách gọi: “Đức Chúa Jesus Christ”. Nhưng khi ông muốn nhấn mạnh đến chức vụ của Đức Chúa Jesus, sự tác động của chức vụ Ngài trên Hội Thánh, thì ông dùng cách gọi: “Đấng Christ” hoặc “Đấng Christ Jesus” [6]. CÁCH DỊCH DANH TỪ “PNEUMA” Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) không có mạo từ xác định, khi dùng cho Thiên Chúa, được dịch là thần để chỉ bản thể của Thiên Chúa, hoặc dịch là thần trí để chỉ ý chí của Thiên Chúa, hoặc dịch là linh (dịch là thánh linh, khi có chữ thánh kèm theo) để chỉ sức sống, năng lực, thẩm quyền, ân tứ (các sự ban cho) ra từ Thiên Chúa qua Đức Thánh Linh. Khi có mạo từ xác định và dùng cho Thiên Chúa, thì được dịch là Đấng Thần Linh (dịch là Đức Thánh Linh, khi có chữ thánh kèm theo), để chỉ về Thiên Chúa Đức Thánh Linh. Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) Khi có mạo từ xác định và dùng cho thiên sứ được dịch là thần linh; nếu dùng cho thiên sứ phạm tội thì được dịch là tà linh. Danh từ “pneuma” /níu-ma/ (G4151) không có mạo từ xác định, khi dùng cho loài người được dịch là thần trí, tinh thần, khuynh hướng. Khi có mạo từ xác định và dùng cho loài người được dịch là tâm thần để chỉ về thân thể thiêng liêng của loài người. CÁCH DỊCH DANH TỪ “ADELPHOS” Danh từ “adelphos” /a-đeo-phót/ (G80) có nghĩa đen là anh em ruột, cùng cha hoặc cùng mẹ, hoặc cùng cả cha lẫn mẹ; khi được dùng để gọi anh chị em trong Chúa, hàm ý nhấn mạnh đến phương diện họ cùng được sinh lại bởi Đức Chúa Trời, cùng được làm con của Đức Chúa Trời, được dịch là “các anh chị em cùng Cha”. CÁCH DỊCH DANH TỪ “EUAGGELION” Chúng tôi chọn dịch danh từ “euaggelion” /du-an-ghê-li-on/ (G2098) thành “Tin Lành” thay vì dịch là “Tin Mừng”, vì “Tin Lành” là tin tức tốt lành về sự tốt lành Thiên Chúa làm ra cho loài người. Chữ “Tin Mừng” không đúng ý với nguyên ngữ Hy-lạp như chữ “Tin Lành”. Tin mừng đối với người này có thể là tin đau buồn cho người khác, trong khi Tin Lành là sự tốt lành chung cho cả muôn loài. CÁCH DỊCH CÁC ĐẠI DANH TỪ NGÔI THỨ BA SỐ NHIỀU Các đại danh từ ngôi thứ ba số nhiều “hymas” /hu-mát/ (G5209), “hymeis” /hu-mai/ (G5210), “hymeteros” /hu-mê-ta-rót/ (G5212), “hymin” /hu-men/ (G5213) khi dùng để gọi con dân Chúa, đều được dịch là “các anh chị em”. ĐỜI ĐỜI Trong Tân Ước, danh từ αἰών [G165] và tính từ αἰώνιος [G166] có nghĩa là không có bắt đầu hay không có kết thúc, hoặc không có bắt đầu lẫn không có kết thúc, được dịch là: mãi, không dứt, bất tận, vĩnh cửu, vĩnh hằng thay vì dịch là “đời đời”. Chữ “đời đời” được dùng để dịch khi hai danh từ αἰών [G165] đi cùng với nhau, như trong Ga-la-ti 1:5; Ê-phê-sô 3:21; Phi-líp 4:20; I Ti-mô-thê 1:17; II Ti-mô-thê 4:18; Hê-bơ-rơ 1:8; 13:21; Khải Huyền 1:6, 18; 5:13; 7:12; 11:15; 14:11; 19:3; 20:10; 22:5. KHÔN SÁNG Dùng từ “khôn sáng” thay cho từ “khôn ngoan” vì “khôn ngoan” trong tiếng Việt có nghĩa là vừa khôn khéo vừa ngoan ngoãn, thích hợp dùng cho trẻ con hơn. TÔN VINH Dùng từ “tôn vinh” thay cho từ “ngợi khen” và “khen ngợi” vì sự “ngợi khen” hay “khen ngợi” là hành động của bậc trên đối với bậc dưới. Thiên Chúa ngợi khen chúng ta nhưng chúng ta tôn vinh Thiên Chúa. CÁCH PHIÊN ÂM Phiên âm là “Ê-xơ-ra” thay vì “E-xơ-ra”. Chúng tôi cố gắng giữ theo cách phiên âm các tên riêng của Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống, ngoại trừ có đôi chỗ sửa lại cho thống nhất cách phiên âm của cùng một tên trong Cựu Ước và Tân Ước, như tên cha của Vua Đa-vít, được phiên âm là Gie-sê (thay vì I-sai). Các âm “Y” được đổi thành “I”, như: phiên âm là “I-sơ-ra-ên” thay vì “Y-sơ-ra-ên”, vì trong nguyên ngữ của Thánh Kinh không có âm “Y”. Kính thưa quý độc giả, Chúng tôi mong được sự góp ý từ mọi người. Xin email cho chúng tôi theo địa chỉ email ở đây: http://timhieuthanhkinh.com/chung-toi-la-ai/. Chúng tôi chân thành cám ơn mọi sự góp ý của quý vị. Chúng tôi sẽ đọc tất cả mọi góp ý được email đến chúng tôi, nhưng chúng tôi không hứa là sẽ hồi âm tất cả, vì khối lượng công việc mỗi ngày của chúng tôi không cho phép chúng tôi hồi âm tất cả những email mà chúng tôi nhận được. Tuy nhiên, nếu sự hồi âm là cần thiết thì chúng tôi sẽ nhanh chóng hồi âm. Khi quý vị gửi email cho chúng tôi thì tài khoản email của chúng tôi sẽ tự động hồi báo là email của quý vị đã đến với chúng tôi. Ba tháng sau khi toàn bộ 27 sách của Thánh Kinh Tân Ước được đăng trên khu mạng này, thì chúng tôi sẽ tiến hành việc in thành sách và phát hành. Thời gian ba tháng là để con dân Chúa khắp nơi đọc duyệt lần chót, trước khi in thành sách. Kính xin quý con dân Chúa cầu thay cho mục vụ phiên dịch và in Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Xin cám ơn quý vị. Trong danh của Đức Chúa Jesus Christ, Huỳnh Christian Timothy và Huỳnh Christian Priscilla 01/12/2017 Ghi Chú [1] Ê-xơ-ra 4:8-6:18; 7:12-26; Đa-ni-ên 2:4b-7:28 [2] Từ điển trên mạng tiếng Hê-bơ-rơ: https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?t=kjv&strongs=h1 (thay thế h1 bằng mã số muốn tra). [3] Từ điển trên mạng tiếng Hy-lạp: https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?t=kjv&strongs=g1 (thay thế g1 bằng mã số muốn tra). [4] http://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-co-lo-se-1_21-29/ [5] http://inthesaltshaker.com/drills/article.htm [6] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/jesus-christ-va-christ-jesus-270/
Book Synopsis Chức vụ cung ứng Lời Tập 25 số 6 by : Suối nước sống
Download or read book Chức vụ cung ứng Lời Tập 25 số 6 written by Suối nước sống and published by Suối Nước Sống. This book was released on 2022-06-05 with total page 281 pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Số ra Chức vụ cung ứng Lời kì này gồm 8 bài trích từ kì Huấn luyện quốc tế dành cho anh em trưởng lão và trách nhiệm do Living Stream Ministry tổ chức ngày 8-10 tháng 10, 2021. Các bài chia sẻ được chiếu qua webcast từ Anaheim, California, và việc tương giao, nói tiên tri và nghiên cứu theo nhóm cách hỗ tương được thực hiện theo địa phương tại các Hội thánh tham dự. Chủ đề tổng quát của loạt bài này là “Đáp ứng nhu cầu của Đức Chúa Trời và các nhu cầu hiện tại trong sự khôi phục của Chúa.” Chúng ta phải thấy rằng Đức Chúa Trời có nhu cầu của Ngài. Bất kể nhu cầu của con người và nhu cầu của các Hội thánh là gì thì nhu cầu của Đức Chúa Trời vẫn lớn hơn nhiều. Để thấy nhu cầu của Đức Chúa Trời, chúng ta cần nhận thức rằng Đức Chúa Trời có một ý muốn, một niềm vui thích tốt lành, đó là khát vọng của lòng Ngài. Niềm vui thích tốt lành của Đức Chúa Trời, tức điều làm Ngài vui, là hoàn thành mục đích đời đời của Ngài để có nơi ở đời đời vì sự biểu lộ đời đời của Ngài. Để ý muốn Ngài được thực hiện trên đất và mục đích đời đời của Ngài được hoàn thành, Đức Chúa Trời cần sự hợp tác của chúng ta. Ngài đã đặt quyền năng vô hạn của Ngài dưới giới hạn là ý muốn của con người; vì thế, chỉ khi đạt được một dân hợp tác với Ngài bằng cách hoàn toàn đáp ứng với ý muốn Ngài thì Ngài mới có con đường không bị cản trở gì để hoàn thành ý muốn của Ngài. Đức Chúa Trời cũng cần khôi phục trái đất khỏi kẻ thù của Ngài qua việc con người xử lí Sa-tan, chế phục và chinh phục trái đất phản loạn. Hơn nữa, Đức Chúa Trời cần “gia đình của Nô-ê” để xây dựng Hội thánh là con tàu ngày nay hầu kết thúc thời đại sa đọa và lươn lẹo ngày nay cũng như đem vương quốc của Đức Chúa Trời đến. Đức Chúa Trời cần người con trai, tức những người đắc thắng trong Hội thánh, là công cụ mang tính thời kì của Ngài cho chuyển động mang tính thời kì vĩ đại nhất của Ngài để kết thúc thời đại này và đem vương quốc của Ngài đến. Để được cấu thành những người đắc thắng, chúng ta phải nhận thức rằng qua sự tái sinh, chúng ta đã được làm nên thọ tạo mới. Là thọ tạo mới, chúng ta cần bước đi trong sự mới mẻ của sự sống, phục vụ trong sự mới mẻ của linh, và được đổi mới mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần lao tác trên Đấng Christ bao-hàm-tất-cả là miền đất tốt tươi bằng cách tìm kiếm và vui hưởng Christ trong mọi hoàn cảnh. Đặc biệt là những trưởng lão và anh em trách nhiệm, chúng ta cần bước vào sự chăn dắt tuyệt diệu của Christ trong chức vụ thuộc trời của Ngài bằng cách vui hưởng và cung ứng Christ để là nô lệ của Đức Chúa Trời chăn dắt Hội thánh của Đức Chúa Trời. Để đáp ứng nhu cầu của Chúa, cầu nguyện là sự hợp tác trực tiếp và thân mật nhất của chúng ta với Ngài. Cầu nguyện là hấp thụ những yếu tố của đất trồng là Christ, miền đất tốt tươi, và biểu lộ điều Đức Chúa Trời đã phát ngôn trong chúng ta khi chúng ta tiếp xúc và tương giao với Ngài. Sự cầu nguyện tốt nhất là cầu nguyện với Đức Chúa Trời như một người bạn, được minh họa trong sự cầu thay vinh hiển của Áp-ra-ham, cuộc trò chuyện thân mật của ông với Đức Chúa Trời. Loại cầu thay này biểu lộ khát vọng của Đức Chúa Trời và thực hiện ý muốn của Ngài.
Book Synopsis Đức Chúa Trời Tam Nhất [Học Trình 2 - PDF] by : Suối nước sống
Download or read book Đức Chúa Trời Tam Nhất [Học Trình 2 - PDF] written by Suối nước sống and published by Suối Nước Sống. This book was released on 2022-07-12 with total page pages. Available in PDF, EPUB and Kindle. Book excerpt: Về Các Học Trình Học trình này là một cuốn trong loạt sách vốn được biên soạn để dạy lẽ thật cho học sinh cấp hai và cấp ba trong suốt thời gian học lớp lẽ thật mùa hè. Vì các học trình đó được viết trong nhiều năm nên các cuốn sách đó có khác nhau về kiểu dáng và định dạng. Về Học Trình Này Đây là học trình thứ hai trong loạt sách đó. Cuốn sách này dựa trên và được sưu tập từ những tác phẩm của anh Watchman Nee và Witness Lee, và hai anh ấy đã không xem lại. Trong học trình trước, tức học trình Sự Cứu Rỗi Trọn Vẹn Của Đức Chúa Trời, chúng ta thấy sự cứu rỗi tuyệt vời mà Đức Chúa Trời đã thực hiện cho chúng ta. Chúng tôi hi vọng anh em được ấn tượng sâu sắc về sự cứu rỗi vĩ đại mà anh em có. Chúng tôi tin rằng bất cứ ai thật sự nhìn thấy sự cứu rỗi đó đều không thể không tin và tiếp nhận Chúa Jesus. Ngợi khen Chúa về sự cứu rỗi trọn vẹn của Ngài! Trong học trình này, anh em sẽ thấy Đức Chúa Trời cứu rỗi này là ai và thể nào Ngài đã thực hiện sự cứu rỗi vĩ đại như thế. Đức Chúa Trời của chúng ta không chỉ là Đức Chúa Trời; Ngài là Đức Chúa Trời Tam Nhất hoặc “Ba-Một”. Ngài là một nhưng là Cha, Con và Thánh Linh. Đây là huyền nhiệm vĩ đại nhất trong vũ trụ; huyền nhiệm ấy đã làm bối rối nhiều Cơ Đốc nhân trong nhiều thế kỷ.